Đặng Ái Việt

Đặng Ái Việt

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Thập niên 70ː Nam thần phim tình cảm, siêu sao đắt giá nhất và nhà sản xuất trẻ tuổi

Đặng Quang Vinh sở hữu ngoại hình điển trai với chiều cao lý tưởng 1m83, phong thái lịch lãm và diễn xuất tinh tế, phóng khoáng khiến nhiều cô gái trẻ si mê, trong đó có thiên vương Hong Kong Lưu Đức Hoa mặc dù là nam cũng là fan hâm mộ cuồng nhiệt của ông. Thập niên 70 chính là thời kỳ hoàng kim nhất của Đặng Quang Vinh khi ông đến Đài Loan để phát triển và đóng hơn 60 phim tiêu biểu tại đây.Các phim ông đóng đa phần là thể loại tâm lý tình cảm lãng mạn. Ông đã hợp tác với hàng loạt những sao nữ nức tiếng xinh đẹp như Lâm Thanh Hà, Lâm Phụng Kiều và Chân Trân. Ông thường xuyên đóng cặp với Lâm Thanh Hà trong rất nhiều phim nổi tiếng mà nổi bật nhất là Run Lover Run (Ái tình trường bào) và Forever My love (Phong diệp tình)[1].

Đầu những năm 70, do sự suy giảm thị trường phim ảnh tiếng Quảng Đông, ông chuyển hướng phát triển với dòng phim tiếng Quan Thoại và tiếp tục thành công với "Lãng tử và tu nữ" (1971), "Tình yêu lừa dối" (1972), "Hỏa Luyến" (1972), "Tình biến"(1972) mở ra giai đoạn vô cùng nổi tiếng tại khu vực Đông Nam Á đặc biệt là tại Malaysia. Năm 1971, vượt qua những cái tên đình đám như Lý Tiểu Long hay Địch Long, Đặng Quang Vinh được bầu chọn là ngôi sao nổi tiếng nhất và được yêu thích nhất xứ Cảng Thơm. Năm 1972, đáp lại lời mời đóng phim, ông đã đến Đài Loan đóng chính bộ phim chuyển thể từ nguyên tác tiểu thuyết tình yêu nổi tiếng "Bạch ốc chi luyến" (Tình yêu trong ngôi nhà trắng) hợp tác lần đầu tiên với Chân Trân, khi công chiếu bộ phim đã trở thành bom tấn thành công vang dội tại phòng vé và tên tuổi của ông được nâng lên tầm cao hơn như là siêu sao màn bạc của dòng phim văn học (ngôn tình)[1].

Kể từ đó thì danh tiếng của Đặng Quang Vinh ngày một tăng cao số đầu phim cũng tăng, ông đi và về giữa hai nơi Hồng Kông và Đài Loan để đóng phim, các thể loại phim ông tham gia rất đa dạng từ dòng phim thần tượng thịnh hành, đến phim tiểu thuyết tình cảm, đến phim hiện thực kỳ tình, phim hài lãng mạn, phim hành động võ thuật…..trong đó bao gồm các tác phẩm nổi bật như: "Đảng Khẩu Tam Lang" (1973), "Tiểu du đẩu đại tặc" (1973), "Thái vân phi" (1973) (Mùa thu lá bay), "Vong mệnh lãng tử" (1973), "Minh nhật thiên nhai" (1973), "Hải âu phi xứ" (1974), "Đông luyến" (1974), "Nhất niên huyễn mộng" (1974 ), "Cận thủy lâu đài" (1974), "Lang vẫn" (1975), "Vùng đất ngoan cường" (1975), "Ái tình trường bào" (1975), "Long phụng phối" (1975), "24 giờ yêu" ( 1975), "Phong Diệp Tình" (1976), "Tình yêu Kung fu" (1976), "Cuộc hẹn buổi sáng" (1976), "Đại phú nhân gia" (1976), "Tình yêu như trò chơi" (1976), "Chuyện tình Hạ Uy Di" (1976), "Hoàng hôn Ba Tư" (1977), "Truy đuổi" (1978) và "Bích Hải Tình Thiên" (1978)[1].

Còn tại Việt Nam thì trong thập niên 70, bộ phim Mùa thu lá bay vang danh khắp Châu Á từng gây cơn sốt mạnh mẽ, khiến giới trẻ Sài Gòn và các đô thị lớn mất ăn mất ngủ. Đặng Quang Vinh cùng với Chân Trân được xem như "cặp tình nhân lý tưởng" của phim tình cảm Quỳnh Dao. Sau này khi Viện tư liệu phim cho chiếu lại bộ phim này ở các rạp Quốc tế, Đống Đa, Hòa Bình dưới dạng phim tư liệu, cũng gây nên cơn sốt của khán giả Việt Nam sau năm 1975. Năm 1973, nhân ngày điện ảnh Việt Nam, Đặng Quang Vinh cùng với Lý Thanh, Chân Trân, Khương Đại Vệ, Địch Long đã đến Sài Gòn và gặp gỡ các nghệ sĩ Việt Nam như Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, Thanh Nga và Mộng Tuyền[1].

Theo báo cáo tư liệu thống kê về mức thu nhập của các ngôi sao điện ảnh, thì nhờ vào độ nổi tiếng của mình, mà thù lao mỗi phim Đặng Quang Vinh nhận được là 150,000 đô la Hồng Kông (khoảng hơn 20, 000 USD), là ngôi sao Hồng Kông được trả cát xê cao nhất trong thập niên 70. Tại thị trường Đài Loan ông cũng là ngôi sao chiếm lĩnh thị trường này với mức thù lao lên đến 180,000-200,000 đô la Hồng Kông (khoảng hơn 25,000 USD) mỗi phim. Năm 1974, phỏng vấn cho một tờ tạp chí, Quang Vinh từng nói có khi cùng lúc ông đóng đến 6 phim. Tuy nhiên mỗi ngày ông chỉ đóng một phim nên gây khó cho các nhà sản xuất[1].

Năm 1974, Quang Vinh không chỉ đóng chính trong phim Splendid Love in Winter ("Đông luyến") với Chân Trân mà còn là nhà sản xuất của bộ phim. Cùng năm đó, bộ phim hợp tác với Mỹ là Dynamite Brothers cũng đã được phát hành. Trong phim ông cộng tác với diễn viên Mỹ Timothy Brown và Ngô Hán Chương. Cuối những năm 70, sự nghiệp của ông tiếp tục thành công rực rỡ ở cả thị trường Hồng Kông lẫn Đài Loan. Năm 1977, Quang Vinh đóng chính trong bộ phim tình cảm lãng mạn của đạo diễn John Lo Mar Impetuous Fire, đóng cặp với ngôi sao tuổi teen đang lên Dư An An. Bộ phim được quay chủ yếu tại Ma Cao, kể từ phim này ông bắt đầu mở rộng việc kinh doanh tại đây. Sau đó vào năm 1977, ông thành lập hãng phim The Wing-Scope Company[1].

Những năm sau đóː kinh doanh nhà hàng, hoạt động từ thiện và đấu tranh dân chủ

Sau khi về hưu từ năm 1994, hãnh phim Media Asia Group đã giành quyền phát hành độc quyền các bộ phim của hãng In-Gear của ông dưới dạng DVD. Từ cuối thập niên 90, Đặng Quang Vinh đã bắt đầu theo đuổi sự nghiệp thứ hai của mình là kinh doanh nhà hàng. Ngoài ra, ông còn là nhà hoạt động từ thiện tích cực ở cả Hồng Kông lẫn Đại Lục với tư cách cá nhân cũng như thành viên của Hiệp hội từ thiện Rotarian. Theo cuốn hồi ký của nhà hoạt động dân chủ Szeto Wah, Đặng Quang Vinh là người hỗ trợ về mặt tài chính cũng như vật chất đáng kể để những sinh viên hoạt động chính trị có thể trốn thoát khỏi Trung Quốc từ sau sự kiện Thảm sát Thiên An Môn. Szeto từng nói Đặng Quang Vinh đã dùng ảnh hưởng của mình tại Ma Cao để giúp đỡ phong trào hoạt động dân chủ Operation Yellowbird (Hoàng Tước hành động) và cá nhân cũng bỏ tài chính ra giúp đỡ để mọi người có thể tiết kiệm thời gian, nhưng ông chưa từng công khai mà bí mật giúp đỡ hoạt động này[1].

Thập niên 80-90ː Siêu sao phim hành động, nhà sản xuất lừng danh

Năm 1987, Đặng Quang Vinh thành lập một hãnh phim khác, In-Gear Film Production Co., Ltd., cùng với anh trai của ông là nhà sản xuất Rover Tang, tiếp tục với vai trò diễn viên chính kiêm nhà sản xuất và xây dựng hình ảnh siêu sao hành động vô cùng thành công. Các tác phẩm gây tiếng vang của ông trong thập niên 80 -90 bao gồm ː Hoàng Họa (1984), Giang hồ long hổ đấu (1987), Tái chiến giang hồ (1990), Long đằng tứ hải (1992), Gangland Odyssey (1992) và Hành động Hắc Báo (1993). Ông cũng sản xuất hai bộ phim do Vương Gia Vệ đạo diễn là Vượng Giác các môn(1988) và A Phí chính truyện (1991). Cũng kể từ thập niên 80 thù lao ông tăng lên đến hơn 700,000 đô la Hồng Kông cho mỗi phim[1].

Giữa thập niên 80, Vương Gia Vệ đã trở thành đạo diễn kiêm biên kịch cho hãng Wing-Scope và In-Gear. Ông đã viết kịch bản cho các phim Tái chiến giang hồ và Giang hồ long hổ đấu, cả hai phim này đều là do Đặng Quang Vinh đóng chính. Phong cách làm phim nghệ thuật hoài niệm của Vương Gia Vệ đã được hình thành trong quá trình làm việc với Đặng Quang Vinh, ông đã đầu tư vào bộ phim đầu tiên của Vương Gia Vệ là Vượng Giác các môn. Sự nghiệp của Vương Gia Vệ cất cánh bay cao khi ông đạo diễn phim A Phi chính truyện năm 1990 mặc dù Đặng Quang Vinh đã thua lỗ hànhg triệu đô la để đầu tư vào bộ phim[1].

Thập niên 60ː Ngôi sao tuổi teen và biệt danh "Hoàng tử học sinh"

Năm 1963 khi Đặng Quang Vinh mới 16 tuổi, đoàn làm phim "Hoàng tử học sinh" đang cần tuyển một diễn viên mới cho bộ phim của họ, khi họ vào quay tại trường trung học của Đặng Quang Vinh đang theo học. Lúc đó các bạn học cùng lớp của Đặng Quang Vinh đã gửi ảnh của ông cho các nhà sản xuất và đạo diễn bộ phim, họ đã ấn tượng với gương mặt đẹp trai cuốn hút cùng với chiều cao lý tưởng 1m 83 của ông, đồng thời các bạn cùng lớp đã đồng loạt ký tên buộc ông tham gia vào buổi casting của bộ phim nên ông đã quyết định tham gia và cuối cùng ông đã xuất sắc vượt qua hơn 2000 thí sinh dự thi để được nhận vào vai nam chính của bộ phim "Hoàng tử học sinh" chính thức bước vào trường quay phim. Khi bộ phim "Hoàng tử học sinh" được công chiếu vào mùa hè năm 1964, thì doanh thu kỷ lục của bộ phim tại phòng vé đã khiến ông thành sao chỉ sau một đêm, kể từ đó ông mang biệt danh là "Hoàng Tử học sinh". Ông học cao đẳng tại trường New Method College (là một trường dành cho giới quý tộc tại Hồng Kông), học khoa lịch sử Trung Quốc.Sau khi tốt nghiệp, ông được giữ lại trường giảng dạy môn lịch sử Trung Quốc nhờ những thành tích xuất sắc trong học tập và nhận được học bổng tuyển thẳng vào trường Đại Học Luật Hồng Kông, nhưng sau đó ông quyết định từ bỏ để theo nghiệp diễn xuất[1].

Sự nghiệp diễn xuất chuyên nghiệp của Đặng Quang Vinh bắt đầu từ sau khi ông tốt nghiệp Cao đẳng vào năm 1967, và Quang Vinh tiếp tục xuất hiện đều đặn trong các bộ phim tâm lý tình cảm dành cho thanh thiếu niên, được gọi với biệt danh “Hoàng tử học sinh”. Những năm cuối thập niên 60,ông cùng các ngôi sao nữ nổi danh như: Trần Bảo Châu, Tiết Gia Yến, Tiêu Phương Phương, Lý Tư Kỳ và các thần tượng tuổi teen khác làm mưa làm gió tại thị trường phim tiếng Quảng Đông, các tác phẩm của ông thời kỳ này bao gồm: "Thố Nữ Lang" (1967), "Đêm giáng sinh lung linh" (1967), "Cô dâu bị xiềng xích"(1967), "Thiết Nhị Hồ" (1968), "Xuân Hiểu Nhân Quy Thời" (1968), "Phi nam phi nữ" (1969), "Đèn đỏ đèn xanh" (1969), "Thời gian vui vẻ" (1970), "Học phủ tân trào" (1970), "Tiểu thư không có nhà" (1970), v.v. Ngoài ra, riêng Quang Vinh luôn được các tạp chí điện ảnh bầu chọn là "Nam diễn viên xuất sắc nhất" hay "Nam diễn viên được yêu thích nhất"[1].